Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2014

H’MÔNG HAY MÔNG – TÊN VÀ Ý NGHĨA

H’MÔNG HAY MÔNG – TÊN VÀ Ý NGHĨA
 Vàng A Cử

Trên thực tế thuật ngữ, "Miêu" và "H'Mông" ("Mèo" và "H'Mông" tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một nhóm dân cư di dân từ Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở miền nam Trung Quốc tại các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ Bắc. Theo điều tra dân số năm 2000, số lượng người Miêu ở Trung Quốc khoảng 9,6 triệu. Ngoài phạm vi Trung Quốc họ còn sống ở Thái Lan, Lào (ở đó gọi là Lào Sủng), Việt Nam và Myanma do di cư từ phương bắt  từ đầu vào khoảng thế kỷ 18. Họ tới Hoa Kỳ, Guyana thuộc Pháp, Pháp và Úc là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết thúc Chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này có tổng cộng  xấp xỉ 8 triệu người nói tiếng Miêu. Tại Việt Nam, có khoảng trên 780.000 người H'Mông.
Các nhà nghiên cứu phương Tây cũng như ở các nước khác ngoài Trung Quốc  xử lý vấn đề về thuật ngữ tên của dân tộc này  không thống nhất. Đầu tiên dân tộc này  sử dụng tên gọi theo kiểu Trung Hoa, trong đó có các phiên âm như: Miao, Meau, Meo, Mo, Miao-tse, Miao-tsze, Miao-tseu (Miêu tộc) v.v. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của người H'Mông ở Lào (một phân nhóm của người Miêu) một số nhà nghiên cứu đương đại đã chấp nhận thuật ngữ khác là "H'Mông".
Bàn đến danh từ  “H’mông” và Mông, thực tế  trong tiếng và chữ viết của  người H’mông,  viết đúng theo ngôn ngữ của dân tộc họ là “Hmoob”.
Về nghĩa, Dân tộc H’mông ở Việt Nam cũng như trên thế giới đều dùng từ “Hmoob” để gọi dân tộc mình, từ này mang hai lớp nghĩa rất rõ ràng trong ngôn ngữ của người H’mông . Một, người H’mông dùng tên của mình là Hmoob để chỉ một cộng đồng người thống nhất có chung nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hóa, phong tục. Dùng nó để phân biệt với những dân tộc khác có ngôn ngữ văn hóa khác như Hán, Thái, Mường...đó cũng là tên gọi là cách phân biệt của những dân tộc khác đối với dân tộc Hmoob (H’mông), đây là nghĩa hẹp. Hai, từ “Hmoob” dùng để chỉ chung cho loài  người không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái...(đây là nghĩa rộng) nó được dùng để phân biệt con người với con vật, ví dụ con người và con vật như cá,  chim... Nghĩa của từ “Hmoob” được hiểu theo cách nào là phải dựa vào hoàn cảnh và mục đích nói.
Hiện nay tại Việt Nam có rất nhiều người dùng từ Mông để thay thế cho H’mông. Hiện tượng này  bắt đầu từ thực tế là tiếng Việt không có âm gió nên không thể đọc đúng theo từ gốc được. Tiếng Việt và tiếng H’Mông hiện nay đều là những ngôn ngữ sử dụng chữ cái latinh để ghi văn bản. Đó là loại chữ viết ghi từng âm vị nguyên âm, phụ âm trong hệ thống ngôn ngữ. Bản thân người H’mông có nhiều ý kiến không thống nhất về cách viết và đọc, có nhiều người cho dùng tên    “Mông” thì hợp lý, có người lại cho rằng chưa chuẩn, phải là “H’mông” mới đúng. Trong một bài viết của Thạc sỹ Trần Thúy Vinh, “ Dân tộc H’mông hay dân tộc Mông”  có đưa ra một lý giải sau : “chúng ta cần phải hiểu rằng: mỗi ngôn ngữ có tính bản sắc riêng về cấu tạo âm, số lượng âm và cách khái quát nghĩa của từ, không thể áp đặt hay đòi hỏi một ngôn ngữ khác phải đáp ứng được yêu cầu này”[1] .
Theo quan điểm của tác giả bài viết này thì chúng ta không thể dùng từ  “H’mông”  mà phải dùng từ “Mông”, tác giải cũng đưa ra nhận định “không thể áp đặt hay đòi hỏi một ngôn ngữ khác phải đáp ứng được yêu cầu này”  Nếu như vậy thì có chăng nên tôn trọng từ gốc là “Hmoob” hay không?. Hay chúng ta nên dùng như ở Lào và Mỹ  viết thành “Hmong”. Dùng từ “Hmong” sẽ giải quyết được nhiều vẫn đề hiện nay.

Tài liệu tham khảo:


1.     T.S Nguyễn Thế Huệ, Dân số các dân tộc miền núi và Trung du bắc bộ từ sau đổi mới, Nxb Văn Hóa Dân Tộc Hà Nội, 2000.

2.      Một số văn kiện về chính sách dân tộc – miền núi của Đảng và nhà nước, Nxb Sự Thật, 1992.


Vàng A Cử . k57 Khoa Lịch sử - Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội.



[1]   Đăng trên báo điện tử Lai Châu oline. http://baolaichau.vn/x%C3%A3-h%E1%BB%99i/d%C3%A2n-t%E1%BB%99c-%E2%80%9Ch%E2%80%99m%C3%B4ng%E2%80%9D-hay-d%C3%A2n-t%E1%BB%99c-%E2%80%9Cm%C3%B4ng%E2%80%9D


TRẦU CAU TRONG TÌNH YÊU HÔN NHÂN

TRẦU CAU TRONG TÌNH YÊU HÔN NHÂN
Bùi Văn Chính
I.Nguồn gốc ra đời trầu cau.
   Theo truyền thuyết và thư tịch cổ, tục ăn trầu ở Việt Nam đã có từ các thời vua Hùng dựng nước. Trải qua bao biến đổi của đời sống xã hội, tục ăn trầu và mời trầu vẫn là một trong những phong tục độc đáo, có sức sống bền bỉ trong đời sống của người Việt, tồn tại cho đến ngày nay trong xã hội nông thôn và đã được biểu trưng qua các nghi lễ tâm linh.
      Ngày xưa, một nhà nọ có Tân và Lang là hai anh em ruột, đặc biệt dáng người và mặt mày giống nhau như đúc, đến nỗi chính người nhà cũng nhiều phen nhầm lẫn. Cha họ là một người cao to nhất trong vùng đã từng được vua Hùng triệu về Phong-châu ban thưởng và đặt tên là Cao. truyen dan gian sự tích việt nam
Từ đó gia đình lấy tiếng “Cao” làm tên họ. Hai anh em lớn lên thì cha mẹ nối nhau qua đời. Cả anh lẫn em quyến luyến nhau không chịu rời nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một đạo sĩ họ Lưu. Nhưng khi Tân đến theo học thì Lang không chịu ở nhà một mình, chàng cũng cố xin cùng được học với anh một thể. Nhà họ Lưu có một cô con gái cũng cùng lứa tuổi với họ. Để tìm hiểu người nào là anh người nào là em, một hôm cô gái họ Lưu bày ra một mẹo nhỏ. Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một đôi đũa. Đứng sau khe vách, nàng thấy người này nhường cháo cho người kia ăn. Nàng lẩm bẩm: “à ra anh chàng vui tính kia là anh!”. Từ đó giữa Tân và cô gái có nhiều cuộc gặp gỡ. Tình yêu giữa hai người mỗi ngày một khăng khít. than thoai hy lap truyện cổ tích
Thấy thế, đạo sĩ họ Lưu vui lòng gả con cho Tân. Sau khi cưới, hai vợ chồng đến ở một ngôi nhà mới, có Lang ở chung. Từ ngày lấy vợ, Tân tuy vẫn chiều chuộng em nhưng không âu yếm em như trước nữa. Trước kia Lang thường được anh chăm sóc nhưng bây giờ thì chàng có nhiều ngày cô đơn. Lang nhận thấy nhiều khi Tân muốn lánh mình. “Phải rồi, anh ấy mê vợ quên ta”. Trong lòng Lang đầy chán nản buồn bực. Một hôm Lang và Tân cùng lên nương đến tối mịt mới về. Lang về trước. Chàng vừa bỏ chân lên ngưỡng cửa thì vợ Tân từ trong buồng chạy ra ôm chầm lấy mình. Lang kêu lên. Cái nhầm của chị dâu làm cho cả hai người cùng ngượng nghịu xấu hổ. Giữa lúc đó thì Tân bước vào nhà. Từ đây Lang lại biết thêm một tính tình mới của anh. Tân ghen em. Cái ghen càng tăng thêm sự hững hờ của Tân đối với chàng. Lang vừa giận vừa thẹn. Chàng muốn bỏ nhà ra đi cho bõ ghét. Một hôm trời mới mờ sáng, Lang quyết định khởi hành. Chàng cứ theo con đường mòn đi mãi, trong lòng đầy bực bội oán trách. Đi luôn mấy ngày đường, Lang tới bờ một con sông lớn. Thấy nước chảy xiết, chàng lấy làm ngại ngùng. Xung quanh không nghe qua một tiếng gà gáy chó sủa. Nhưng Lang quyết không chịu trở lại. Lang ngồi cúi gục trên bờ, ôm mặt khóc. Chàng khóc mãi, khóc mãi, đến nỗi những con chim đi kiếm ăn khuya vẫn còn nghe tiếng nức nở. Sáng hôm sau, Lang chỉ còn là một cái xác không hồn. Chàng đã hóa đá. truyen ngan y nghia truyện việt nam
Tân thấy mất hút em thoạt đầu không để ý. Mãi sau vẫn không thấy em về, Tân bổ đi tìm các nhà quen nhưng cũng không thấy tăm dạng. Biết là em bỏ đi vì giận mình, chàng lấy làm hối hận. Hôm sau nữa, cũng không thấy về, Tân hoảng hốt để vợ lại nhà, cất bước đi tìm. Sau mấy ngày, chàng đã đến bờ một con sông rộng. Không có cách gì qua được, Tân đi men dọc sông, cuối cùng thấy em đã hóa thành đá. Tân đứng bên cạnh hòn đá khóc mãi cho đến lúc chỉ còn có tiếng nước cuồn cuộn chảy dưới bờ mà thôi. Tân chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh hòn đá. Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà đi tìm. Nhưng cuối cùng con sông nọ cũng ngăn cản bước chân của nàng. Người đàn bà ấy ngồi lại bên cạnh cây, khóc cạn cả nước mắt. Và sau đó nàng chết hóa thành một cây dây quấn quanh lấy cây kia. Đợi mãi không thấy ba người về, vợ chồng đạo sĩ nhờ mọi người chia nhau tìm kiếm. Trước hòn đá và hai cây lạ, họ chỉ còn biết dựng miếu thờ cả ba người trẻ tuổi ở ven sông. Nhân dân quanh vùng gọi là miếu “anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa”.

Về sau, một năm nọ trời làm hạn hán rất dữ. Mọi cây cỏ đều khô héo cả. Duy hai cây mọc bên cạnh hòn đá trước miếu là vẫn xanh mượt. Mọi người cho là linh dị. Vua Hùng một hôm ngự giá qua xứ đó. Khi đi qua trước miếu, vua hơi ngạc nhiên vì cảnh lạ cây lạ: “Miếu này thờ vị thần nào? Mấy loại cây này ta chưa từng thấy bao giờ? ” Để trả lời câu hỏi của vua, Lạc tướng cho gọi mấy cụ già ở quanh vùng đến hỏi. Hùng Vương càng nghe, không ngăn được sự cảm động. Vua vạch lá trèo lên nhìn khắp mọi chỗ. Đoạn, vua sai một người trèo cây hái quả xuống nếm thử. Vị chát không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thì một vị là lạ đến ở đầu lưỡi: nó vừa ngon ngọt, vừa thơm cay. Tự nhiên có một viên quan hầu kêu lên: “Trời ơi! Máu!” Mọi người giãn ra kinh ngạc. Thì ra những bãi nhai quả và lá của hai thứ cây đó một khi nhổ xuống đá bỗng đỏ ối ra như máu. Vua sai lấy cả ba thứ nhai lẫn với nhau thì bỗng thấy người nóng bừng như có hơi men, môi đỏ tươi, sắc mặt hồng hào tươi đẹp. Vua bảo:
       Thật là linh dị! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn thắm đỏ. Từ đó vua Hùng ra lệnh cho mọi nơi phải gây giống cho nhiều hai loại cây ấy. Điều đáng chú ý là luật của nhà vua bắt buộc trai gái khi kết hôn thế nào cũng phải tìm cho được ba món: trầu, cau và vôi cho mọi người nhai nhai nhổ nhổ một tí để ghi nhớ tình yêu không bao giờ phai lạt. Vì thế từ đó dân Việt mới có tục ăn trầu. truyện viet nam

II. Các khía cạnh thể hiện trầu cau có mặt trong tình yêu hôn nhân.
1.Trầu cau có mặt trong cưới hỏi của người Việt nam.
     Tự ngàn xưa, trong mâm lễ vật cưới, hỏi của người Việt, dù ở các vùng miền, phong tục  khác nhau, dù có thể thiếu bánh nhưng không thể thiếu trầu cau. Các cụ đã có câu: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, “Miếng trầu nên dâu nhà người”. Miếng trầu là khởi nguồn của mọi câu chuyện, nhờ miếng trầu mà thành dâu nhà người.  
  Hiện nay cuộc sống hiện đại, phong tục cưới xin cũng có nhiều biến đổi nhưng trầu cau thì vẫn không thể thiếu trong những nghi thức cưới xin của người Việt.
      Thông thường lễ vật bao gồm buồng cau và trầu đầy ắp, có từ vài chục đến vài trăm quả, nhưng phải là số chẵn, vì quan niệm có đôi có cặp. Qùa lễ có thể là 100 cau, 80 trầu. Ngoài ra, hiện nay mọi người đang ưa chuộng buồng cau 105 quả theo cách nói “ trăm năm hạnh phúc” hoặc chọn buồng cau 60 quả vì theo cách ví von của người Việt là “ 60 năm hạnh phúc”.
       Do hiện nay ít người còn ăn và có khi không chia quà cho nhà trai cho họ hàng, bạn bè nên khay cau trầu mặc dù vẫn phải có nhưng chỉ amng tính ước lệ, chỉ cần 6 miếng trầu têm và quả cau bổ làm sáu.
      Theo tục lệ miền Bắc, trầu phải têm cánh phượng, lá trầu phải là laoij trầu cay màu xanh lá dày lá, vôi dùng loại lá vôi Bắc màu tráng và thuốc thường dùng kèm lá thuốc lào, và loại vỏ đỏ. Theo tục lệ miền Nam trầu thường têm kiểu bánh ú, lá trầu là loại trầu ngọt đi đôi với vôi dỏ, thuốc lá và vỏ giấy.
     Tóm lại, có thể nói trầu cau à biểu tượng của tình yêu đôi lứa, là một thứ quan trọng không thể thiếu trong các nghi thức về tình yêu hôn nhân. Qua thời gian cuộc sông hiện đại dường như tiến bộ hơn nhưng trầu cau vẫn không thể thiếu được trong những nghi thức cưới hỏi của người Việt Nam ta.
 3. Trầu cau có mặt trong ca dao tục ngữ viết về tình yêu hôn nhân.
     Trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình ảnh miếng trầu đã trở lên hết sức quen tuộc, gần gũi. Và tục lệ mời trầu, ăn trầu là một nét văn hóa không chỉ có trong các lễ nghi văn hóa truyền thống như hội hè cưới hỏi mà còn phổ biến trong cuộc sống cưới hỏi mà còn phổ biến trong cuộc sống thường ngày. Trầu cau luôn luôn tượng trưng cho sự chung thủy, nồng nàn và bền vững của lứa đôi. Từ thời xa xưa, lễ vật này có mặt trong các truyện cổ tích như trầu cau, tấm cám và đặc biệt là lễ vật này còn xuất hiện khá nhiều trong ca dao về tình yêu đối lứa.
     Miếng rầu là một bức thông điệp, là vật “ đưa tin” của các tràng trai, cô gái. Họ nhờ miếng trầu để bày tỏ tình cảm của mình.
Sáng ngày em đi hái dâu
Em gặp anh ấy ngồi câu thạch bàn
Và anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô đã vội vàng đi đâu
Thưa rằng em đi hái dâu
Và anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người
    Cô gái vốn là con nhà nề nếp, trọng gia phong khuôn phép nên chẳng dễ dàng nhận trầu ngay. Hơn nữa nhận trầu là nhận lấy sự rằng buộc nhất định về tình cảm , trong khi đây mới là buổi mới làm quen. Nhưng đó lại chính là cơ hội để cho tràng trai giới thiệu về miếng trầu của mình.
Trầu này trầu quê trầu hồi
Trầu loan trầu phượng, trầu tôi trầu mình
Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình, trầu ta
Trầu này têm tối hôm qua
Giấu cha, giấu mẹ đem ra mời nàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa không thuốc sao nàng không ăn?
Hay nàng chê khó, chê khăn
Xin nàng đứng lại mà ăn trầu nay
   Đây là miếng trầu “ đặc biệt” được đưa ra mời trong một thời điểm “ đặc biệt”. Nó hội tụ tất cả những gì đẹp đẽ, sang trọng nhất bởi miếng trầu đó được têm bằng tấm lòng chân thành, tình cảm trong sáng của tràng trai. Cô gái biết được lai lịch, giá rị của miếng trầu mà qua đó biết được lai lịch, giá trị của người mời trầu. Vì vậy, cô đành tỏ thái độ lờ lững nửa vời, cũng là để “ báo hiệu” cho chàng trai:
Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn
    Được lời như cởi tấm lòng, chàng trai tiến tới khẳng địn một lần nữa giá trị của miếng trầu và ngầm ý bảo với cô gái rằng việc mời trầu, nhận trầu là hoàn toàn tự nguyện và chàng trai luôn tôn trọng ý kiến của cô:
Trầu này têm với vôi Tàu
Giữa thêm cát cánh hai đầu quế cay
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng
Dù chẳng lên nghĩa vợ chồng
Xơi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương
Sau buổi làm quen đó, hai người dần dần có tình cảm với nhau và tình yêu bắt đầu chớm nở. Để đến khi chàng trai sang nhà chơi thì cô gái có thể chủ động mời trầu:
Ra vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu cho anh xơi trầu
   Cau bổ ralamf sáu là loại cau vừa đủ độ chín, không non cũng không già. Qua lời mời này, cô gái đã kín đáo bày tổ thái độ ưng thuận trước chàng trai. Và ngọn lửa nhen nhóm lên đã giúp cô gái vượ qua những ràng buộc gò bó của lễ giáo phong kiến để chủ động ướm hỏi chàng trai.
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em vun ké dây trầu một bên
Chừng nào trầu nọ bén lên
Cau kia bé trái lập nên cửa nhà
     Và đôi khi cô gái cũng không kém phần báo dạn, tinh nghịch:
Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm
   Được cô gái “ mở đường chỉ lối”, chàng trai sung sướng như mở cờ trọng bụng, nói thẳng ước muốn của mình mà không hề e ngại:
Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên
Tình yêu đã khiến cho cuộc đời của đôi lứa trở nên đẹp đẽ hơn giúp họ lạc quan, tin tưởng vào tình yêu của mình. Chỉ có tình yêu chân thành, nồng thắm thì mới có thể giúp họ “ một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”, thông cảm vị tha cho nhau:
Đêm khuya thiếp mói hỏi chang
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không?
  Hỏi là hỏi thế thôi chứ thực ra cô gái đã ngầm khẳng định tình yêu của mình với chàng trai mà cô đã nguyện gắn bó xuốt đời. Tình yêu đó sẽ giú họ vượt qua mọi khó khăn , vất vả để xây dựng hạnh phúc vững.
   Tuy nhiên không phải mối tình nào cũng được “ đơm hoa kết trái” mãn nguyện như thế. Có nhiều bài thờ cũng diễn tả tâm trạng đau xót, nhơ thương của chàng trai hay cô gái khi không lấy được người mình yêu. Lúc đó, cô gái chỉ còn biết thở dài đồng cảm, chia sẻ và nhẹ nhàng trách móc chàng trai:
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
 Như chim vào lồng như ca cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thửa nào ra.
  Cho dù nguyên nhân chủ quan hay nguyên nhân khách quan thì tình yêu lỡ dở đều để lại niềm nuối tiếc, nhớ thương, xót xa cho chàng trai, cô gái:
Yêu nhau chẳng lấy được nhau
 Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già
Mặc dù không thành đôi nhưng họ vẫn luôn tôn trong hạnh phúc của nhau và có những ứng xử cao thượng, đúng mực để tình yêu mai mãi là những niệm đẹp, trong trẻo.
   Đọc lại những bài ca dao về đôi lứa, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn những vẻ đẹp của nền văn hóa dân tộc, vẻ đẹp trong đời sống tình cảm  của ông cha ta. Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong đó có phong tục mời trầu và ăn trầu , càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết, để tình yêu mãi mãi trong sáng và thắm nồng như tình trầu duyên cau.
III. Ý nghĩa của việc sử dụng trầu cau trong tình yêu hôn nhân.
   Trầu cau đã trử thành một nét độc đáo của dân tộc Việt Nam. Miếng trầu chứa đựng nhiều tình cảm , nhiều ý nghĩa thiêng liêng gắn bó thân thiết trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Ăn trầu là phong tục cổ truyền và phổ biến trong dân gian suốt hàng năm lịch sử.
    Trầu cau thể hiện tình cảm gắn kết lâu bền của một cặp đôi trai gái khi đã trở thành vợ chồng của nhau. Miếng trầu có nhiều vị, cay, nồng, đắng và pha thêm là tí ngọt nữa cũng như trong tình yêu đôi lứa cũng có nhiều tâm trạng  cảm xúc. Vui, buồn, hờn, giận nhưng tình tình yêu phải có những vị như thế thì mới làm cho tình yêu trở lên thú vị và lãng mạn tình cảm hơn.
   Tình yêu đôi lứa của người xưa tuy mộc mạc nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Nào những trầu giải yếm giải khăn đến trầu loan trầu phượng trầu tôi trầu mình là những tràu tính trầu tình trầu nhân trầu ngãi để rồi trở thành trầu mình trầu ta, trầu nên vợ lên chồng. Miếng trầu nồng thắm luôn có mặt trong hôn lễ là sự khơi gợi, nhắc nhở mọi người hướng về một tình yêu sắt son, chung thủy. Một cuộc sống vợ chồng gắn bó yêu thương và luôn lấy tình nghĩa làm trọng.
IV. Kết luận.
         Trầu cau đã đi vào tiềm thức hàng ngàn đời nay của dân tộc Việt nam. Trầu cau có mặt ở khắp mọi nới và chứa đựng biết bao cảm xúc. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ của ông cha ta. Hình ảnh trầu cau luôn gắn với tình yêu đôi lứa, với lễ tơ hồng.
       Trầu cau đã đi vào giấc ngủ tuổi thơ với lời ru của ba, lời kể của mẹ. Trầu cau là một trong những cảm hứng sáng tác của biết bao nghệ sĩ với những tác phẩm thấm đẫm hồn cốt dân tộc.
   Tục ăn trầu đã trở thành một nét đẹp văn hoá không phai nhòa trong tâm hồn người Việt nên tháng nǎm có qua, miếng trầu vẫn không thể thiếu trong các đám cưới, trong các môn đồ lễ của các bà, các cô dâng lên bàn thờ tổ tiên, cầu khấn thần phật với lòng thành kính. Ngày nay, để răng trắng nên nhiều người không ăn trầu nữa, nhất là ở thành phố. Tuy nhiên, quan niệm "miếng trầu là đầu câu chuyện" của người Việt Nam vẫn được áp dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Vì biếu trầu là tục lệ, là tình cảm nên dẫu có ăn hay không cũng chẳng ai chối từ.

V.Danh Mục tài liệu tham khảo.
 1. Lê Hữu Mục, Lĩnh Nam Chích Quái, nxb Tân Việt, Hoa Kỳ, 1982.
 2. Nguyễn Trúc Phương, Văn học bình dân, nxb Sống Mới, Sàigòn 1964.
 3. Nguyễn Hướng (Dallas), Nam Phổ... trèo cau, Làng Văn số 135, Canada, 1995.
 4. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Tục ngữ phong dao, Nxb Mặc Lâm, Sàigòn 1967.
 5. Phan Kế Bính, VN Phong tục, nxb Bút Việt, Sàigòn, tháng 2, 1975.
 6. Trần Trọng Kim, VN sử lược, IQ, Bộ Giáo Dục SG xb.
 7. Thái Văn Kiểm, Lá trầu định mệnh, Nguyệt San Thế Giới, Austin, Texas, tháng 8, 1996.
8. Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau nguyên nhất thư, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nôi, 2011.
9.Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau Việt Điện thư, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2011.

10. Trần Nhật Vy, Mười tám thôn vườn trầu, Nxb Văn hóa – Văn Nghệ, Hà Nội, 2013.

TÌM HIỂU TỤC MÚA SƯ TỬ CỦA NGƯỜI TÀY – NÙNG XÃ THẠCH ĐẠN - HUYỆN CAO LỘC - TỈNH LẠNG SƠN

TÌM HIỂU TỤC MÚA SƯ TỬ  CỦA NGƯỜI TÀY – NÙNG
XÃ THẠCH ĐẠN - HUYỆN CAO LỘC - TỈNH LẠNG SƠN
Lý Viết Trường - Đỗ Thị Mai Dung
I.                  Mở đầu
1.     Lý do chọn đề tài
Múa Sư Tử dịp đầu năm mới là một trong những nét văn hóa đặc sắc và thu hút được sự quan tâm đông đảo của đồng bào người Tày – Nùng xã Thạch Đạn – huyện Cao Lộc – tỉnh Lạng Sơn.
Nhằm mục đích tìm hiểu để có được những nhận thức đầy đủ và rõ nét hơn về tục múa Sư Tử của người Tày – Nùng nên chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Tục múa của người Tày – Nùng xã Thạch Đạn – huyện Cao Lộc – tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên.
2.     Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Múa Sư Tử là một hoạt động phổ biến của người Tày – Nùng nhưng số lượng người quan tâm nghiên cứu rất ít, có thể kể ra đây một vài người như: TS. Hoàng Văn Páo có đề cập đến múa Sư Tử trong luận án Tiến Sĩ “Lễ hội Lồng Tồng của người Tày” và sau này xuất bản thành sách chung với tác giả Cao Thị Hải với tên gọi “Lễ hội dân gian dân tộc Tày”, Hà Văn Thư - Hoàng Nam - Vi Hồng Nhân - Vương Toàn với Ai lên Xứ Lạng, Nguyễn Cường - Hoàng Văn Nghiệm với Xứ Lạng văn hóa và du lịch, Hà Đình Thành với “Văn hóa dân gian Tày – Nùng ở Việt Nam”.
Còn vài tác giả khác có đề cập đến đề tài múa Sư Tử như PGS.TS Hoàng Nam với “Dân tộc Nùng ở Việt Nam”, Hà Văn Thư, Lã Văn Lô với “Văn hóa Tày Nùng”, GS Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ với Mùa xuân và phong tục Việt Nam…
Tuy nhiên các bài nghiên cứu ở trên chỉ mới bước đầu tìm hiểu và mang tính giới thiệu nhiều hơn là nghiên cứu chuyên sâu.
3.     Đối tượng, phương pháp và phạm vi nghiên cứu
3.1.         Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này của chúng tôi là “tìm hiểu tục múa Sư Tử” và những ảnh hưởng của múa Sư Tử - Phụ “đối với người Tày – Nùng Xứ Lạng”.
Khách thể nghiên cứu của đề tài chúng tôi là đồng bào Tày – Nùng Xứ Lạng. Nghĩa là tìm hiểu những tác động qua lại giữa hoạt động múa Sư Tử với cuộc sống của đồng bào Tày – Nùng Xứ Lạng.
3.2.         Phương pháp nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp điền dã kết hợp với tra cứu các tài liệu đã xuất bản làm tài liệu chính. Bên cạnh đó chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác như so sánh, đối chiếu, liệt kê và đặc biệt là miêu tả đối tượng nghiên cứu.
3.3.         Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu của bài nghiên cứu này chủ yếu được giới hạn ở tộc người Tày – Nùng tỉnh Lạng Sơn.
4.     Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi tập trung đi sâu vào tìm hiểu về hình tượng con Sư Tử trong đời sống văn hóa của người Tày – Nùng xã Thạch Đạn – huyện Cao Lộc – tỉnh Lạng Sơn.
Thông qua việc tìm hiểu đó chúng tôi đánh giá mối liên quan của con Sư Tử đối với đời sống vật chất và tinh thần của người Tày – Nùng xã Thạch Đạn – huyện Cao Lộc – tỉnh Lạng Sơn. Đồng thời chúng tôi cũng tìm hiểu xem xu hướng biến đổi của hình tượng con Sư Tử qua đó có cái nhìn toàn diện hơn về chủ đề này.
Tuy nhiên như tên đề tài đã nói, đây mới chỉ là bước đầu tìm hiểu nên đề tài chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót.
5.     Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu chủ yếu để viết bài nghiên cứu này là điền dã, tư liệu địa phương thu thập được thông qua khảo sát thực tế.
Ngoài ra chúng tôi cũng thừa hưởng một số thành quả nghiên cứu dù còn sơ khai của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, TS Hoàng Văn Páo, PGS Hoàng Nam và một số bài báo đăng trên báo Lạng Sơn và các trang mạng.
II.               Nội dung
1.     Vài nét sơ lược về xã Thạch Đạn – huyện Cao Lộc – tỉnh Lạng Sơn và tộc người Tày – Nùng
1.1.         Vài nét sơ lược về xã Thạch Đạn – huyện Cao Lộc – tỉnh Lạng Sơn
1.1.1.  Lịch sử hình thành
Thời Hùng Vương, vùng đất này có tên gọi là Lục Hải (tức Lục Châu, tên châu thời Đường, miền Quảng Ninh ngày nay), trải qua bao biến cố lịch sử, tên gọi cũng thay đổi theo thời gian.
Đến thời Đinh – tiền Lê trở đi thì trên bản đồ đã thấy ghi Lạng Sơn.
Đến cuối đời Trần, sử có chép ghi lại tên gọi Lạng Sơn là lộ Lạng Sơn còn tài liệu Trung Quốc chép thời thuộc Minh có trấn Lạng Sơn.
Đến đời Lê – Nguyễn, đất nước được chia làm các đạo thừa tuyên. Lạng Sơn có 1 phủ, 6 châu.
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) chính thức có tên gọi tỉnh Lạng Sơn[1].
1.1.2.  Vị trí địa lý.
Xã Thạch đạn thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, xã có diện tích 35,3 km2, dân số năm 1999 là 2847 người, mật độ dân số 81 người/km2.
Lạng Sơn có diện tích 8.320,2 km2 (năm 2011) số dân là 741.200 người (năm 2011), mật độ 89 người/km2.
Gồm 1 thành phố và 10 huyện, 226 đơn vị hành chính cấp xã, 207 xã, 5 phường và 14 thị trấn.
Phía bắc giáp tỉnh Cao Bằng: 55 km, Phía đông bắc giáp Sùng Tả (Quảng Tây,Trung Quốc): 253 km, Phía nam giáp tỉnh Bắc Giang: 148 km, Phía đông nam giáp tỉnh Quảng Ninh: 48 km, Phía tây giáp tỉnh Bắc Kạn: 73 km, Phía tây nam giáp tỉnh Thái Nguyên: 60 km.
1.1.3.  Vài nét về văn hóa Xứ Lạng.
Xứ Lạng – Lạng Sơn là xứ địa đầu đón nhận những trận gió rét của mùa đông khốc liệt để hoa đào mùa xuân nở thắm, núi non trùng điệp, ruộng đồng ít ỏi, đá sỏi cằn cỗi.
Nói đến văn hóa Lạng Sơn là người ta nhắc đến lễ hội Lồng tồng, những vần sli, câu then của những chàng trai, cô gái người Tày – Nùng trong những sắc áo thổ cẩm và chiếc khăn piêu thiêu tay rực rỡ.
Nói đến Xứ Lạng là nói đến sự hòa quyện của 7 tộc người Tày, Nùng, Dao… cùng chung sống ngàn đời trên mảnh đất này. Họ đã góp phần dựng nên một mảnh đất đa sắc màu, đa văn hóa.
Nói đến văn hóa Lạng Sơn là nói đến động, chùa Tam Thanh, Nhị Thanh, Tam Giáo, chùa Thành, Bắc Nga, Kỳ Cùng, đền Tả Phủ, đền Bắc Lệ, đền Đồng Đăng…
Từng ngôi nhà trình tường, từng điệu hát dân ca… đều phản ánh sự tài hoa, ý chí kiên cường, sáng tạo của người Xứ Lạng. Những nét đẹp đó đã góp phần tạo nên một nền văn hóa Xứ Lạng đạm đà bản sắc.
1.2.         Vài nét tổng quan về tộc người Tày – Nùng
Tày và Nùng là hai tộc người nói ngôn ngữ thuộc nhóm Tày – Thái ở Việt Nam. Thuộc nhóm ngôn ngữ này ngoài Tày, Thái còn có các tộc người khác như: Nùng, Giáy, Sán Chay, Bố Y, Lào, Lự… Người ta chia nhóm ngôn ngữ Tày – Thái thành hai tiểu nhóm là Tiểu nhóm Thái gần gũi với các tộc thuộc ngành thài chung ở phía tây và tiểu nhóm Tày gần với tộc thuộc ngành Choang chung ở phía đông. Trong tiểu nhóm Tày thì tộc Tày và Nùng là các tộc người có số dân đông nhất so với các tộc khác cùng nhóm.
Người Tày và Nùng có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, theo tài liệu thống kê năm 2009, số lượng người Tày là 1.626.392 người (đông thứ hai sau tộc người Kinh), chiếm vị chí đông nhất, người Nùng là 968.800 người (đứng thứ 6 sau trong số các tộc người thiểu số), Lạng Sơn là tỉnh có đông người Nùng sống nhất Việt Nam[2].
Người Tày – Nùng sống chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái và ngoài ra còn có một số ít bộ phận nhỏ sống ở các tỉnh khác như Quảng Ninh, Bắc Giang, đặc biệt sau 1975, số lượng người Tày – Nùng di cư vào phía Nam trên địa bàn các tỉnh như Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Gia Lai, Kon Tum, Ninh Thuận. Theo số lượng thống kê năm 1989, số người Tày – Nùng ở Tây Nguyên và vùng phụ cận đã lên đến vài chục ngàn người.
Tày là tên gọi lâu đời có nguồn gốc chung với tên gọi của nhiều tộc thuộc nhóm Thái – Choang ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á như: Tai, Tay, Táy, Thai… đều có nghĩa là người. Người Tày ở Việt Nam còn có tên gọi là Thổ, nghĩa là người sống lâu đời ở vùng đất này nên người đến sau gọi là Thổ, tuy nhiên nước ta cũng có nhiều cư dân bản địa được gọi là người Thổ.
Tộc danh Nùng có thể có thể có tên từ tên một dòng họ Nùng có thế lực ở vùng Tả Giang và Hữu Giang (Quảng Tây, thời Đường).
Người Tày ít có sự phân biệt giữa các nhóm địa phương còn người Nùng thì điều này rất nổi bật, hiện nay người ta chia nhóm người Nùng thành hai loại:
§  Loại tên gọi căn cứ vào đặc trưng trang phục thường do những người làng giềng gọi họ như: Nùng Khen Lài (người Nùng áo có các khoanh vải màu), Nùng Hua Lài (người Nùng đội khăn chàm có đốm trắng), Nùng Slử Tỉn (người Nùng mặc áo ngắn chấm mông)…
§  Loại tên gọi theo địa danh, nơi họ sinh sống trước khi di cư tới Việt Nam, như: Nùng An (châu An Kết), Nùng Inh (châu Long Anh), Nùng Phàn Slình (châu Vạn Thành), Nùng Quý Rịn (từ Quy Thuận), Nùng Lòi (châu Hạ Lôi)… ngoài ra còn có các tên gọi khác mà tới nay khoa học chưa xác định được nguồn gốc như: Nùng Dín, Nùng Xuồng, Nùng Tùng Xin, Nùng Viền, Nùng Chủ….
Khi nói về nguồn gốc của người Tày – Nùng người ta thường nhắc đến những giai đoạn lịch sử xa xôi, các truyền thuyết như “Pú Lương Quân”, “Cẩu chúa cheng vua”… rõ ràng người Tày và người Nùng cổ đã hòa nhập với người Việt Cổ để hình thành người Việt hiện đại và cũng có giai đoạn người Việt bị Tày – Nùng hóa, rõ ràng thời kỳ nhà Mạc thất thủ chạy lên biên giới phía bắc và biến thành người Tày – Nùng.
Tuy nhiên có một điều chắc chắn rằng đại bộ phận người Nùng hiện nay đều mới di cư từ Trung Quốc sang cách ngày nay khoảng hai trăm năm. Bởi vì đại bộ phận những người Nùng di cư sang Việt Nam từ sớm đã bị Tày hóa, theo Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn vào thế kỷ XVIII, người Nùng từ 12 thổ châu ở Trung Quốc sang vùng Tuyên Quang mà hiện nay ở Tuyên Quang chỉ còn rất ít người Nùng, khoảng 1200 người. Trong trí nhớ của những người già, họ vẫn còn nhớ tổ tiên họ là người Nùng Choáng, Nùng Phủ.
Hai tộc người Tày, Nùng có quan hệ mật thiết, sống xem cài với nhau, giao lưu văn hóa với nhau nên hiện nay nhiều nơi để phân biệt giữa văn hóa Tày và Nùng rất khó.
2.     Tục múa sư tử
2.1.         Nguồn gốc và tên gọi
Theo nhiều tài liệu thì phần đa người Nùng ở Việt Nam vừa từ Trung Quốc di cư vào Việt Nam được hơn 200 năm. Vì vậy chúng tôi cho rằng nguồn gốc tục múa sư tử là ở bên Trung Quốc và được người Nùng mang theo khi di cư sang Việt Nam, tuổi đời các con sư tử Việt Nam cũng vì thế chỉ khoảng hơn 200 năm.
Cũng theo cụ Lý Văn Ỏn thì nguồn gốc Sư Tử có lẽ được du nhập từ Trung Quốc, bởi lẽ bên Trung Quốc múa Sư Tử rất phổ biến và từ xưa đến nay người ta thường mua đầu Sư Tử, các vật dụng gõ như Trống, chiêng, mõ, não ở bên Trung Quốc. Bởi lẽ bên Trung Quốc các vật dụng này chất lượng thường tốt hơn bên Việt Nam sản xuất và bên đó giá thành cũng rẻ hơn.
Múa Sư Tử cũng có nhiều tên gọi khác nhau, mỗi tộc người có một tên gọi khác nhau:
Người Nùng Phàn Slình gọi múa Sư Tử là con “Phụ” hay “Lòng Phụ”.
Người Tày gọi là con “Kỳ Lằn” hay múa “Kỳ Lằn”.
Tiếng việt gọi là con Sư Tử hay múa Sư Tử.
2.2.         Quy trình làm Sư Tử (quy trình làm Phụ)
2.2.1.  Đầu Sư Tử (đầu Phụ)
Ngày xưa người ta thường mua đầu Sư Tử ở bên Quảng Đông - Trung Quốc, bởi vì lúc đó ở đầu Phụ ở Việt Nam chất lượng không tốt và không đẹp bằng bên Trung Quốc họ sản xuất.
Ngày nay người ta đầu Sư tử mua ngay ở Việt Nam (ở Lạng Sơn hiện nay có bán). Ngày xưa người ta thường nói bên Trung Quốc chất lượng tốt hơn mua bên Việt Nam nhưng mấy năm gần đây chất lượng ở bên Việt Nam cũng đã cải thiện hơn về chất lượng và mẫu mã sản phẩm.
Đầu Sư tử được làm bằng đất sét nặn và nung qua lửa rồi sau đó dùng sơn trang trí sặc sỡ với các màu xanh, đổ, đen, vàng, trắng, hồng, tím… trông rất hung dữ. Đầu Sư tử hình tròn giống chiếc nón vành rộng, đường kính khoảng 50 cm, có mắt to, mũi to, mồm rộng, tai nhỏ và chếch ra phía đằng sau, có râu bằng vải đỏ, có long mày, có 3 chiếc sừng, có lưỡi và long mép… Phía trong đầu có 2 thanh ngang làm bằng gỗ để tay cầm khi múa. Đầu sư tử thường nhẹ để dễ dàng điều khiển khi múa, dịp thường khi không múa sư tử người ta cất giữ cẩn thận trên gác.
2.2.2.  Cổ Sư Tử (cổ Phụ)
Cổ Sư Tử thường được làm từ 3 hay 4 mảnh vải khâu lại với nhau, mỗi mảnh khoảng 10cm và trên cổ Sư Tử người ta thường gắn vào một hàng len, dài khoảng hơn 10cm thường là màu xanh để tăng thêm nét đẹp và sự uyển chuyển cho con sư tử khi nó múa.
Nhìn vào cổ con Sư Tử người ta có thể phân biệt được đó là con Sư Tử già hay trẻ, Sư Tử già là Sư Tử có thâm niên lâu đời trong nghề múa và thường múa giỏi còn sư tử trẻ thì ngược lại. Con Sư Tử già ở cổ sẽ được trang trí một lớp vải đen ở cổ và có nhiều tua len xanh, con nào có lớp vải đen ở cổ sẽ được các con khác kính nể và được coi là Sư Tử cấp cao. Con Sư Tử trẻ thường ở cổ sẽ được trang trí màu xanh.
2.2.3.  Thân Sư Tử (thân Phụ)
Vải được mua ở chợ, vải mua nhiều loại, mỗi loại sẽ mua khoảng 20 cm, vải thường được chọn là vải có màu sắc sặc sỡ, thường là màu xanh, đỏ, tím,vàng, màu hoa… và màu đen.
Sau khi mua vải về, những người khéo tay sẽ được giao nhiệm vụ khâu lại thành thân sư tử, mỗi lớp dài khoảng 10 cm.
Rìa phía dưới mảnh vải được cắt thành hình lưỡi liềm, bên trong bụng có một sợi dây gắn với thân Sư Tử và được dắt ở cổ người múa nhằm mục đích giữ con Sư Tử luôn gắn vào người khi múa.
Con Sư Tử thường dài từ 1m50 trở lên đến gần 2m.
2.3.         Các vật dụng kèm theo con sư tử
2.3.1.  Báo Đông (đười ươi)
Con Báo Đông được làm bằng giấy hoặc đất sét và sơn thành hình rất quái dị. Con này chỉ có đầu và cổ kéo dài, chụp vào đầu người khi chơi. Nó giống kiểu đeo mặt nạ.
2.3.2.  Mặt khỉ (nả lình)
Làm bằng giấy hoặc nhựa và được tô sơn giống mặt khỉ. Con này được đeo vào mặt trong chơi trong lúc diễn.
2.3.3.  Sư tử con (Phụ lục)
Cũng giống như Sư Tử mẹ nhưng nhỏ hơn và ở cổ được may vải xanh, do người nhỏ tuổi múa. Có nơi thay Sư Tử con bằng hình con Cáo (tua hân).
2.3.4.  Trống (choong)
Trống có hai loại, loại thon dài và loại hình tròn mỏng.
Thân trống được làm từ gỗ mít hoặc các loại gỗ khác nhưng cần phải bền và chịu được mưa, nắng.
Hai đầu trống được bọc bằng da bò, hươu hoặc da ngựa.
Xung quang người ta dùng gỗ móc già làm đinh để đóng vào mảnh tre nhỏ làm nêm nhằm giữ cho mặt trống luôn căng.
Hai dùi trống được làm bằng gỗ để trần hoặc bịt bằng cao su. Trống có thể đánh được cả hai mặt và rất bền.
2.3.5.  Chiêng (là)
Được đúc bằng đồng thau, có pha chút vàng, khi gõ có độ vang và rền. Chiêng có nhiều loại nhưng người ta dùng chiêng có núm hoặc chiêng bằng.
Cơ bản chiêng múa Sư Tử giống chiêng của đồng bào Tây Nguyên dùng trong nghi lễ Cồng Chiêng Tây Nguyên.
Chiêng là vật dụng gõ chỉ đạo, khi chiêng gõ mạnh, nhanh thì con Sư Tử sẽ múa mạnh và tung hứng theo tiếng chiêng và ngược lại.
2.3.6.  Chũm chọe (xụp xè, xấp xóa, nghé xả)
Được làm bằng đồng thau, có hai mảnh, mỗi mảnh đều có núm cầm để đập vào nhau và tạo ra âm thanh nghe rộn rã.
2.3.7.  Bộ võ
Bộ võ gồm có gậy, đoản kiếm, đinh ba, dao nhọn.
Bộ võ chủ yếu làm từ gỗ và đầu được bịt sắt, trừ kiếm là làm bằng sắt. đinh ba, dao nhọn được làm bằng sắt và gắn vào cây gậy.
2.4.         Người múa sư tử
Người múa sư tử không quy định lứa tuổi, tất cả mọi người chỉ cần đam mê, nhiệt tình và có sức khỏe đều có thể tham gia múa sư tử. “Trung bình mỗi đội múa sư tử có khoảng 15, 16 thành viên, trong đó có một thày dạy võ (lạo slay), một ngoại giao viên (tong cha), thày dạy võ có nhiệm vụ hướng dẫn việc múa sư tử, dạy võ cho hội viên, đi lên rừng hái thuốc để hội viên ngâm rượu để uống hoặc xoa bóp cho rắn cơ, hoặc chưa cho thành viên khi tập võ, thi đấu bị thương tích”[3]. Thày dạy võ là người giỏi võ công, biết các phương thuốc còn ngoại giao viên thì chịu trách nhiệm với bên ngoài, mời sư tử bạn và chịu trách nhiệm trong việc chi tiêu.
Những người Tày, Nùng từ khi sinh ra đến khi mất đi họ đều gắn bó suốt đời mình với tục múa sư tử. Thường thì những đứa trẻ con sẽ theo người lớn đi tập, không quy định về lứa tuổi, có những đứa trẻ 5,6 tuổi đã theo anh, theo cha ra bãi đất trống đầu hoặc cuối làng để tập múa sư tử. Họ múa sư tử suốt đời đến khi nào không còn múa được nữa thì vẫn đi xem sư tử, dạy võ, dạy kỹ thuật múa sư tử, kỹ thuật đánh chiêng, chống, chũm chọe… cho con em trong làng.
Nhiều nơi trước tết khoảng một hoặc hai tháng khi công việc đồng áng đã xong, người người nông nhàn thì bà con lại rủ nhau mang sư tử ra tập luyện. Những âm thanh rộn ràng của chiêng, trống, chũm chọe góp phần xua đi cái lạnh lẽo của những ngày mùa đông lạnh giá Xứ Lạng.
Những buổi tập luyện này thường thu hút đông đảo người trong làng, bản đến xem như: già, trẻ, trai, gái… có thể nói rằng bằng những buổi tập này mà tình làng nghĩa xóm, sự đoàn kết giữa người với càng thêm gắn bó.
Những người múa sư tử thường sẽ được cả làng kính trọng bởi vì những người múa sư tử thường rất giỏi võ và khéo léo. Người Tày, Nùng có lưu truyền câu “Báo phụ day lai tò là cảu va tàu” (trai múa sư tử đẹp lắm nhưng chỉ là ăn máy thôi) để miêu tả những người tham gia múa sư tử.
Người chỉ huy phụ (tàu phụ), thường là người có uy tín, giỏi võ công và tháo vát, giỏi quản lý chung. Những người giữ chức chỉ huy sẽ giữ tiền và giỏi chi tiêu, có tài giao tiếp, họ thường sẽ được mọi người xung quanh kính nể.
Múa sư tử thường không có con gái mà chỉ có con trai tham gia, thoạt đấu chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đây là ảnh hưởng của tư tưởng “Trọng nam khinh nữ” chăng, nhưng không ở đây hoàn toàn không có tư tưởng trọng nam kinh nữ. Múa sư tử chỉ có con trai tham gia là vì những động tác múa sư tử cần sức khỏe, sự nhanh nhẹn và nguy hiểm nên thường sẽ chỉ có con trai múa sư tử.
Tuy nhiên cũng có những nơi con gái tham gia vào việc múa võ (oọc quyền). Con gái luyện võ để phòng thân, để rèn luyện sức khỏe và để biểu diễn trong các dịp hội lồng tồng.
2.5.         Sư tử thường múa trong các dịp lễ
2.5.1.  Múa ở miếu (thó tỳ)
Miếu thổ thần tọa lạc ở một nơi bên trong bản hay bên cạnh khóm rừng, cánh rừng, rừng thiêng. Có nơi miếu thổ thần được gọi là Thó tỳ (thổ địa), có nơi như ở Tràng Định gọi là Cốc bản (già bản, gốc bản), thờ người đầu tiên đến khai khẩn, lập ra ngôi làng đó.
Khi muốn múa Sư tử thì con sư tử phải đến trình diện Thành hoàng làng, đình, miếu để xin phép, người Tày – Nùng quan niệm rằng nếu không trình diện và xin phép thì thổ công, thổ địa sẽ phạt vạ.
Khi đến trước sân đình, sư tử múa ngẩng cao đầu, lúc cúi thấp tỏ ra huân hoan khi được đến thăm chúc mừng năm mới thần. Khi vào trong đình sư tử phải cúi thấp, đi khom, có lúc đi bằng khuỷu tay từ trái sang phải, từ trên xuống dưới rồi múa dật lùi từ trong ra ngoài. Khi ra khỏi cửa, sư tử ngẩng cao đầu và hạ xuống ba lần báo hiệu đã chào thần xong.
Tục múa sư tử ở thành hoàng làng, đình, miếu thể hiện sự tôn thờ thần thánh, niềm tin của người Tày – Nùng vào sự trở che của thần, thánh. Cũng có nơi miếu, thó tì thờ thổ địa hay thờ “cốc bản”, vì vậy khi muốn múa sư tử họ phải lên miếu, thó xin phép cũng là thể hiện sự biết ơn đối với những người đã khai lập nên làng, bản đó.
2.5.2.  Đến chúc mừng năm mới các nhà trong làng (pai hờn, pái lờn)
Đầu năm mới vào ngày mùng 1 hay mùng 2 tết âm lịch tùy từng địa phương, đồng bào Tày – Nùng Lạng Sơn thường mời các đội múa Sư Tử vào nhà mình múa với quan niệm năm mới Sư Tử xuất hiện sẽ gặp nhiều may mắn và xua đuổi tà ma, diệt mọi ôn địch, biểu hiện sự thái bình và niềm tin vào một năm mới sung túc.
Sư tử múa từ ngoài sân vào trong nhà, Sư tử tiến từ từ vào lạy bàn thờ tổ tiên, múa quanh bàn thờ, múa quanh cột nhà, múa khắp nhà.  Sư tử khi vào nhà chúc Tết, trước hết con sư tử phải liếm (lì) hai cái cột cổng. Khi vào trong cúi lạy, ít nhất phải cúi lạy 3 lần trước bàn thờ tổ tiên, sau đó sẽ liếm bàn thờ tổ tiên. Sở dĩ phải liếm cột cổng vì theo dân gian quan niệm: Cánh cổng có ma tà hay có cái gì bẩn thỉu ám vào, sư tử dùng hành động này xua đi. Tiếp đó sư tử phải múa tượng trưng cho hành động liếm các góc bàn thờ, xua đuổi ma tà. Động tác liếm là dùng tay múa, đưa đi đưa lại. Thông thường con Sư tử sẽ được chủ nhà lì xì, rượu và “ka hoòng”. Sau đó con Sư tử sẽ cúi rạp xuống đất và từ từ lùi ra một cách nhẹ nhàng, người ta quan niệm rằng nếu Sư tử mà quay lưng vào bàn thờ tổ tiên thì sẽ bị tổ tiên chủ nhà phạt vạ.
Tuy nhiên cũng có nhà chỉ cho Sư tử múa trong sân thôi vì tổ tiên họ kỵ Sư tử. Tuy nhiên thường thì họ vẫn lì xì cho con Sư tử.
Ngày xưa lì xì thường chỉ từ vài nghìn đến chục nghìn tùy vào từng địa phương. Lì xì chủ yếu mang yếu tố văn hóa là chính chứ không nặng về kinh tế.
Tục này cũng thể hiện lòng đoàn kết của đồng bào Tày, Nùng Lạng Sơn, sư tử đi mọi nhà không hề phân biệt nhà đó giàu hay nghèo, cao sang hay quyền quý. Điều đó đã phần nào đóng góp và nói lên nét đẹp văn hóa của đồng bào Tày, Nùng.
2.5.3.  Múa tại hội lồng tồng
Ở bất cứ hội lồng tồng nào thì mục múa Sư tử bao giờ cũng được chia thành hai phần chủ yếu: Múa sư tử và múa võ (ọc quyền).
Thông thường hội lồng tồng nào cũng đều có từ vài con Sư Tử đến múa và giao lưu tranh tài cùng. Một số nơi Sư tử nào đến hội trước sẽ được gọi là sư tử đàn anh và sẽ chủ trì buổi biểu diễn.
Người ta chia múa sư tử ở hội lồng tồng thành 5 phần khác nhau, đó là:
         Thứ nhất: điệu múa chào khán giả
         Thứ hai: điệu múa chào thần thánh
         Thứ ba: điệu múa vui hội
         Thứ tư: điệu múa sư tử đẻ con
         Thứ năm: điệu múa săn sư tử
Cụ thể:
Thứ nhất: điệu múa chào sư tử bạn
 Khi con sư tử bạn đến, con sư tử nhà sẽ ra đón, hai con vờn nhau rất uyển chuyển, con sư tử lúc chồm lên cao lúc lại phục xuống thấp, cùng với đó là tiếng chiêng, trống nổi lên ầm ĩ vang cả một góc trời.
Sư tử vờn nhau thực chất là họ đang tỉ thí võ thuật, họ vừa múa vừa dùng các thế võ để hạ gục đối thủ. Cho nên khi đón Sư Tử bạn phải chọn người có võ thuật cao để ra đón, nếu không sẽ bị đối phương hạ gục. Con Sư Tử nhà đi thấp bao nhiêu thì Sư Tử bạn phải đi thấp bấy nhiêu, theo thông lệ thì Sư Tử bạn bao giờ cũng chịu thua, nhưng nếu gặp con Sư Tử chủ nhà võ công quá thấp thì Sư Tử bạn sẽ đánh cho vỡ trận.
Sau khi múa xong màn chào nhau và trình thành hoàng làng các con Sư Tử đi vòng quanh chào khán giả, động tác vừa uyển chuyển vừa nhẹ nhàng.
Thứ hai: điệu múa chào thần thánh
Đầu tiên người múa Sư Tử phải chào Thần thánh. Điệu múa này bắt buộc đối với hoạt động nhảy múa của Sư Tử. Khi tiếng chiêng, tiếng trống vang lên Sư Tử bắt đầu múa. Tất cả Sư Tử đồng loạt ngẩng cao đầu, dùng hai tay xoay tròn, đầu lúc nghiêng phải, lúc nghiêng trái, lúc cúi xuống trông rực rỡ rất đẹp màu. Màn chào thần thánh thường diễn ra khoảng 30 phút.
Thứ ba: điệu múa vui hội
Các đội múa Sư Tử bắt đầu thể hiện tài nghệ của mình, múa Sư Tử thực chất là múa võ, người múa võ phải thực hiện các bài quyền, các điệu múa được biến thể từ các điệu võ cổ truyền dân tộc. Sư Tử - Võ thuật, một công thức, một tương quan tỷ lệ thuận.
Động tác “ka hoòng” được một người giỏi võ trong đội thực hiện. Trong hội mỗi đội sẽ  thực hiện bài quyền và tiến tới con Sư tử nắm lấy cằm con Sư tử và dùng sức mạnh giữ đầu con Sư tử lại rồi buộc mảnh vải hồng vào cằm con Sư tử (để dài xuống kiểu râu Sư tử), sau đó lại ra quyền để lùi về. Trong lúc “Ka hòng” chiêng, trống, xũm xọa gõ mạnh dồn dập với tiết tấu nhanh.
Động tác “Hỏi slử” vừa múa vừa dùng đầu gối đẩy nhau, con nào bị lệch gối bật ra, lùi về sau hay ngã thì sẽ bị thua. Có những cuộc tỷ thí giữa hai con Sư tử lên đến 5 hiệp mà không phân chia thắng bại. Do vậy muốn thắng người múa cần phải giỏi võ, dai sức và khéo lẽo.
Sau khi sư tử múa khoảng một giờ thì báo đông xuất hiện và thực hiện các động tác múa vui với sư tử. Báo đông thường dùng cành cây để dọa sư tử hoặc đuổi bắt, đè đầu cưỡi cổ và đấm đá sư tử… sau đó sư tử lại cau có, tức giận tấn công lại báo đông. Những trò diễn của báo đông và sư tử tạo nên một không khó vui tươi và những trận cười sảng khoái cho khán giả.
Sau khi báo đông diễn được một lúc thì con khỉ (lình) vào góp vui cùng, thông thường mỗi đội có hai con khỉ. Các trò diễn của khỉ đều chịu sự chỉ đạo của báo đông. Báo đông dạy khỉ tập đi thẳng toàn thân, đi nghiêng, đi sang phải, sang trái… khi khỉ đã thuần thực các động tác múa thì báo đông dẫn khí đến cùng vui với sư tử. Báo đông với khỉ cùng chọc ghẹo sư tử, đuổi đánh sư tử, ngược lại sư tử sẽ thực hiện các động tác chồm lên bắt mồi, vồ mồi… nhưng báo đông và khỉ cũng rất nhanh sẽ dùng các miếng võ đánh lại hoặc tránh né.
Trong phần này người múa sư tử cùng người tham gia đóng giả báo đông và khỉ phải có sức khỏe dẻo dai và có võ công để thực hiện những miếng đánh và tránh khi bị tấn công. Chính vì sự vui nhộn và phô trương võ thuật này mà hội múa sư tử thu hút được đông đảo người xem.
Thứ tư: điệu múa sư tử đẻ con
Các con sư tử âu yếm nhau và thực hiện các động tác ân ái tượng trưng rồi sau đó sẽ có một người cầm đầu sư tử con chui vào đuôi sư tử mẹ. Sư tử mẹ lúc này múa lặc lè, nhẹ nhàng tựa như đang mang thai, sau đó sư tử con được sinh ra. Sauk hi sư tử con ra đời sư tử mẹ dạy cho những động tác múa đầu tiên, lúc này sư tử con múa những động tác yếu đuối giống trẻ con tập đi, sư tử mẹ sẽ múa những động tác âu yếm săn sóc, nuôi dưỡng sư tử con. Sau đó ít lâu thì hai mẹ con cùng múa nhịp nhàng, uyển chuyển thể hiện sự trưởng thành của sư tử con.
Thứ năm: điệu múa săn sư tử
Một người trong đội múa sư tử cầm đoản đao cùng những người đeo mặt nạ khỉ, báo đông đuổi đánh sư tử vòng quanh sân múa. Lúc này tiếng chiêng, tiếng chống tiếng chũm chọe vang lên dồn dập, tiếng người hò reo như đang đánh trận. Lúc này sư tử thể hiện các thế võ để vừa múa vừa tránh đòn vừa vồ mồi một cách nhanh và mạnh. Nhưng sau đó thì sư tử cũng bị bắt, thợ săn cùng báo đông và khỉ dùng gậy buộc chéo nhau và lùa sư tử vào chòng. Sau khi sư tử đã kiệt sức đoàn thợ săn đè đầu sư tử ra rồi chặt cổ sư tử và ăn mừng chiến thắng. Điệu múa sư tử là điệu múa hay nhất, xứng đáng là tinh hoa văn hóa dân gian Tày, Nùng.
Điệu múa săn sư tử thể hiện sức mạnh chinh phục tự nhiên của người Tày, Nùng. Sư tử là chúa sơn lâm là vua của muôn loài nhưng bằng sức mạnh, bản lĩnh và chí thông minh của mình đồng bào vẫn có thể chinh phục được sư tử.
Múa võ (oóc quyền)
Sau khi múa sư tử xong người ta chuyển sang múa võ với các dụng cụ: gậy, đoản đảo, sam sa… và múa võ bằng tay không.
Múa tay không: Là điệu múa mở đầu và cũng là điệu múa chào thần thánh. Múa võ bằng tay không được đẹm bằng tiếng chiêng, trống, chũm chọe.
Múa gậy: người múa dùng gậy làm vũ khí, người múa thực hiện những đường múa uyển chuyển và tấn công nhau, tiếng đầu gậy va vào nhau nghe chan chát rất kịch tính nhưng cũng rất chính xác, an toàn cho người biểu diễn. Đội hình múa sư tử diễn ra theo thứ tự:
         Hai người múa
         Bốn người múa
         Sáu người múa
         Tám người múa
Múa đoản đảo: thường là múa đơn hoặc múa đôi. Ở động tác này không mang tính chất đối kháng mà chỉ mang tính chất biểu diễn là chính, những động tác nhanh, đẹp và vô cùng uyển chuyển… đã tạo nên cảm giác vô cùng phấn khích cho người xem.
Múa slam sla, xa (múa đinh ba chạc): một thế võ vừa có tiến công vừa có phòng thủ, những động tác nhào lộn hoặc xoay tròn tạo thế phòng thủ hoặc tiến công trên vũ trường. Các động tác diễn ra nhanh nhẹn, linh hoạt khiến cho người xem vô cùng thán phục.
2.6.         Các trò diễn
2.6.1.  Nhảy bàn (dết xoòng)
Người ta đặt ở giữa sân chơi một cái bàn gỗ (xoòng tài) vuông và kê chắc chắn. Khi chơi họ đặt một tay lên góc bàn và nhảy tung người bay qua góc bàn, hai tay trống xuống hai góc bàn, toàn thân tạo thành thế song song với mặt bàn, vẫn với tư thế như vậy, họ chuyển tay sang tư thế góc khác. Người chơi giỏi có thể nhảy qua nhảy lại đôi ba lần rồi mới nhảy xuống đất một cách nhẹ nhàng. Người chơi trò này cần có sức khỏe, khéo léo và được luyện tập cẩn thận, nếu không mắt cá chân sẽ bị góc bàn va vào góc bàn gây ra chấn thương.
2.6.2.  Nhảy qua vòng tẹm (ống cót)
Người ta lấy một tấm cót với chiếu dài đủ để khi cuộn tròn lại có đường kính một mét, đặt trên một khung gỗ được đóng chắc chắn. Khi nhảy, người nhảy phải chạy lấy đà, hai tay giơ ra đằng trước, toàn thâm lao qua ống cót sang bên kia. Khi rơi, đầu phải gập lại, toàn thân cuộn tròn để làm sao khi tiếp đất bừng đôi bàn chân chứ không phải bằng đầu hoặc mình. Chỗ rơi thường là chỗ ruộng mềm hoặc chỗ cát.
2.6.3.  Nhảy qua vòng phảy (vòng lửa)
Vòng lửa được kết bằng một sợi dây được cuốn bằng vải tẩm dầu sau đó châm lửa đốt. Người ta chạy lấy đà rồi nhảy toàn thân qua vòng lửa và cuộn sang bên kia trong tư thế không ngã.
2.6.4.  Nhảy qua cửa dao (quá tu pạ)
Đây là tiết mục mà động tác tương đối nguy hiểm, đòi hỏi người nhảy phải hết sức khéo léo, nhanh nhẹn và có lòng dũng cảm. Người ta lấy một thanh tre, cuốn thành vòng có đường kính khoảng một mét và đặt trên một khung gỗ. Trên vòng tròn đó được gắn bốn con dao nhọn ở bốn phía và mũi dao hướng vào tâm vòng tròn. Khi nhảy có hai người đứng hai bên làm nhiệm vụ hỗ trợ, người nhảy chạy lấy đà, hai tay duỗi thẳng ra phía trước và lao qua vòng tròn rồi gập đầu lộn xuống đất. Trong trường hợp người nhảy lúng túng hoặc có dấu hiệu nguy hiểm thì hai người hỗ trợ nhanh chóng rút con dao ra để đảm bảo sự an toàn cho người nhảy. 
3.     Kết luận
Tục múa sư tử là môn thể thao nghệ thuật thể hiện tinh thần võ học, lòng dũng cảm của đồng bào Tày - Nùng. Những người múa sư tử đều biết múa võ, đánh quyền dân tộc.
Tục múa sư tử phần nào nói lên cuộc sống hòa đồng với thiên nhiên như: Sư tử, đười ươi (báo đông), khỉ (nả lình)... đồng thời điều này cũng nói lên quá trình chinh phục tự nhiên của đồng bào Tày - Nùng.
Tục múa sư tử thể hiện sự tài hoa của đồng bào khi dùng âm nhạc một cách tài tình, những người múa sư tử thường ngày là những người nông dân "Chân lấm tay bùn" chăm chỉ làm ăn nhưng khi họ đã hòa mình vào tục múa sư tử thì họ đã trở thành những nghệ sĩ thực thụ.
Tri thức bản địa cùng với trình độ phát triển văn hóa, trình độ sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của người Tày - Nùng, tục múa sư tử cũng thể hiện qua sự sáng tạo điệu múa dân gian giàu bản sắc dân tộc.
Tục múa sư tử còn thể hiện sự giao lưu văn hóa giữa tộc người Tày và Nùng ở Lạng Sơn, đồng thời nói lên mẫu hình giao lưu văn hóa sống động, đặc biệt là với văn hóa Việt và văn hóa Hán.
Tuy nhiên hiện nay tục múa sư tử đã phần nào bị mai một ở một số địa phương, múa sư tử bây giờ ngày càng kém hấp dẫn vì các tiết mục biểu diễn đơn điệu. Thậm chí một số nơi bây giờ đã chính thức mất hẳn tục múa sư tử, cụ thể ở xã Thạch Đạn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn cách đây 30 năm làng nào cũng có sư tử, thế nhưng bây giờ chỉ còn thôn Nà Sla duy trì được tục múa sư tử.
Dù còn giữ được sư tử nhưng ở các ngày hội lồng tồng sư tử ít tham gia múa (chỉ còn múa ở hội lồng tồng Nà Lệnh 10/1 âm lịch, hội chùa Bắc Nga 15/01 âm lịch, hội Đầu Pháo 22/01 và 27/1 âm lịch, hội lồng tồng Nà Sla 03/02 âm lịch), nếu có tham gia thì cũng chỉ múa sư tử đơn thuần thôi chứ không còn duy trì tiết mục đi cùng như: múa võ, nhảy qua vòng dao, nhảy qua vòng lửa, nhảy qua vòng tẹm, nhảy bàn... Hiện nay trong dù trong hội có múa sư tử thì cũng thường chỉ có một con sư tử khác múa nên rất đơn điệu, kém hấp dẫn, ngoại trừ hội đầu pháo và hội chùa Bắc Nga mấy năm gần đây được sở văn hóa tỉnh Lạng Sơn tổ chức thi sư tử.
Phụ lục và tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo
1.     Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa Thông tin, 2005.
2.     Bế Viết Đẳng, Dân tộc học Việt Nam định hướng và thành tựu nghiên cứu (1973 - 1998), Nxb Khoa học Xã hội, H.2006.
3.     Hoàng Nam, Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.1992.
4.     Nhiều tác giả, Kho tàng lễ hội cổ truyền việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.2000.
5.     Hoàng Văn Páo, Cao Thị Hải, Lễ hội dân gian dân tộc Tày, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.2012.
6.     Ngô Đức Thịnh, Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, H.2006.
7.     Hà Văn Thư, Lã Văn Lô, Văn hóa Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, H.1984
8.     Mã Thế Vinh, Lạng Sơn vùng đất của Chi Lăng – Đồng Đăng – Kỳ Lừa, Nxb Trẻ, 2012.




[1] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa Thông tin, 2005.
[2] Mã Thế Vinh, Lạng Sơn vùng đất của Chi Lăng – Đồng Đăng – Kỳ Lừa, Nxb Trẻ, 2012, tr.128.
[3] Nhiều tác giả, Kho tàng lễ hội cổ truyền việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.2000, tr.196.