Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2014

PHONG TRÀO PHẬT GIÁO MIỀN NAM VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU VỤ TỰ THIÊU CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC

PHONG TRÀO PHẬT GIÁO MIỀN NAM
VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU VỤ TỰ THIÊU
CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC[1]
Lý Viết Trường
Phật giáo đã du nhập vào nước ta vài nghìn năm và có những đóng góp đáng kể cho đất nước trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, dựng nước và giữ nước. Trên thực tế Phật giáo đã có đóng góp lớn vào cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là chống Mỹ. Các phong trào đấu tranh của Phật tử nổ ra với nhiều hình thức phong phú và đa dạng, đáng quan tâm nhất là vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức[2] ngày 11/06/1963[3].
1.     Phong trào phật giáo miền Nam dưới thời Ngô Đình Diệm
Từ những năm 1960 trở đi chính quyền Ngô Đình Diệm ra sức khủng bố Phật giáo khiến quần chúng nhân dân bất bình.
Ngày 20/02/1962, Giới lãnh đạo Phật giáo đã gửi kháng thư đến Ngô Đình Diệm để “Bày tỏ sự khủng bố, áp bức bất công với Phật giáo là không thể kể xiết… Tình trạng giết chóc, bắt bớ, đàn áp bất công ở hạ tầng đã gây nên hoang mang, khủng khiếp trong hàng Phật tử chúng tôi và làm cho họ gần như mất hết tư tưởng cần thiết…”[4].
Cuộc kháng chiến chống Mỹ từ đầu năm 1963 gặp nhiều khó khăn do địch đẩy mạnh tiến độ xây dựng “Ấp chiến lược” và tiến hành các cuộc hành quân chống phá cơ sở cách mạng ác liệt.
Phật giáo là một trong những mục tiêu chống phá của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong lúc tình hình diễn biến ngày càng xấu đi trên chiến trường Miền Nam thì xảy ra một sự kiện kéo dài suốt bốn tháng và được báo chí gọi là “Bốn mươi ngày nóng bỏng” ở các đô thị lớn, đó là xung đột giữa chính quyền Diệm với Phật giáo và học sinh. Sự kiện diễn ra đầu tiên ở cố đô Huế, nơi có trên 400 ngôi chùa.
Ngày 07/05/1963, Ngô Đình Cẩn cho lính và cảnh sát đi truyền lệnh cấm treo cờ theo công điện số 9195. Cờ phật là biểu tượng thiêng liêng của phật, nơi nào có cờ phật treo đồng nghĩa với nơi đó có chùa có chiền, có đất phật. Ngô Đình Diệm cho cấm treo cờ đã gây bất bình lớn trong dân chúng và dẫn đến cuộc biểu tình của 5000 người, đi đầu là hội chủ Tổng hội Phật giáo Miền nam, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, kéo lên Dinh tỉnh trưởng đấu tranh thắng lợi.
Ngày 08/05/1963, do Ngô Đình Cẩn cấm không cho truyền thanh như thường lệ vì vậy một hòa thượng đã đứng lên kêu gọi “Tuy phật tử chúng ta không chủ trương bạo động, nhưng chúng ta sẵn sàng chết vì tín ngưỡng, nếu cần”[5]. Chính phủ Diệm cho nổ súng, cho xe thiết giáp rượt theo quần chúng gây ra cái chết bi thương cho gần 30 người.
 Ngày 09/05/1963, Chính phủ Diệm bóp méo thông tin cho là quần chúng biểu tình và dương cao khẩu ngữ:  “Đả đảo hành động sát nhân, vu khống, hãy giết chúng tôi đi, máu đã chảy, chúng tôi sẵn sang đổ máu…” cướp đài phát thanh và số người chết là do lựu đạn từ đám biểu tình nhưng hãng UPI (12/05) để lộ một chi tiết “Thi thể những người bị sát hại tại Huế hầu hết bị pháo bắn thẳng cắt đứt đôi”[6].
Ngày 11/05/1963, lệnh giới nghiêm được phát ra ở Huế, tín đồ bị truy lùng, Chùa Từ Đàm bị xe tăng, thiết giáp bao vây. Ngày 12/05/1963, Diệm cấm không cho Phật tử Sài Gòn cầu siêu cho những người bị sát hại ở Huế. Tổng hội Phật giáo ban bố bản cáo trạng lên án Diệm tàn sát Phật tử. Ngày 21/05/1963, Tổng hội Phật giáo tổ chức cầu siêu ở 17 tỉnh, đông nhất là chùa Đàm (Huế) với 5000 người. Tại Sài Gòn có 600 nhà sư biểu tình trong im lặng từ chùa Ấn Quang đến chùa Xá Lợi. Diệm ra lệnh giới nghiêm trong thành phố. Ngày 29/05/1963, Diệm ra chỉ thị, trấn an công chức về vụ xung đột giữa chính quyền và phật giáo. Ngày 30/05/1963, Tăng ni, phật tử và sinh viên Sài Gòn tuyệt thực trong 48 giờ để phản đối luận điểm sai trái của Diệm. Chùa Từ Đàm ở Huế bị cảnh sát bao vây và cắt điện nước. Ngày 31/05/1963, cuộc biểu tình tiếp tục trước trụ sở quốc hội. Hội sinh viên gửi kiến nghị lên chính quyền phản đối chính sách khủng bố Phật giáo. Ngày 03/06/1963, hơn 1200 sinh viên, thanh niên Phật tử biểu tình rồi bị khủng bố bằng lựu đạn, chất bỏng, hơi cay... làm 125 người bị thương, hơn 100 người bị bắt, 2 người chết, trong đó có Tổng thư ký hội sinh viên Phật tử. Ngày 04/06/1963, phật tử  tiếp tục biểu tình, Diệm lập Ủy ban liên bộ để nghiên cứu giải quyết vấn đề Phật giáo. Ngày 10/06/1963, Nhà trắng đánh tiếng ủng hộ Diệm trong vụ xung đột với Phật giáo. Hãng UPI nhận xét “Sự ủng hộ đó có thể làm mất hình ảnh của Mỹ trong mắt nhân dân Việt Nam”.
Ngày 11/06/1963, tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu – Cách mạng tháng tám), trước sự chứng kiến của chừng 1000 tăng ni, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cổ phong trào đấu tranh của các giáo dân và những người yêu hòa bình.
Sau đó di hài Hòa thượng được bọc trong áo cà sa và mang về chùa Xá Lợi, chùa Xá Lợi bị phong tỏa mọi tin tức.
Ngày 12/06/1963 Ủy ban Trung ương mặt trận giải phóng Miền Nam Việt Nam làm lễ truy điệu trọng thể Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã thể hiện một tinh thần tử vì đạo, sẵn sang hi sinh vì giáo lý nhà Phật đồng thời sự kiện này cũng đã gây nên làn sóng dư luận và có sức lan tỏa mạnh mẽ đối với các bên tham gia vào cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam. Vụ đàn áp này đã góp phần làm cho chính quyền Ngô Đình Diệm bị lung lay và việc Diệm bị lật đổ là không thể tránh khỏi.
Phản ứng của chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam
Ngày 06/06/1963 Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khẩn đến Đại sứ R.Goburdhun với nội dung “… Bộ tổng tư lệnh quân đội Nhân dân Việt Nam nghiêm khắc lên án và cực lực phản đối hành động dã man của chính quyền Ngô Đình Diệm…” và yêu cầu Diệm “Chấm dứt mọi hành động khủng bố thanh niên, sinh viên và nhân dân Huế… chấm dứt chia rẽ tôn giáo, đàn áp Phật giáo…”. Mặt trận Dân tộc giải phóng Trung Trung Bộ tuyên bố “Lòng căm thù của đồng bào Phật giáo âm ỉ từ lâu, nay bốc thành ngọn lửa đấu tranh… Ủy ban kêu gọi đồng bào các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc ở Nam trung bộ hãy ra sức cùng đồng bào cả nước làm hậu hương cho cuộc đấu tranh này”[7]. Đảng cộng sản đưa ra khẩu hiệu với nội dung “Đả đảo Mỹ - Diệm càn quét, khủng bố tàn sát đồng bào Miền Nam, đàn áp Phật giáo”[8]. Ngày 02/07/1963 khi đưa vào Miền Nam “Đả đảo Mỹ - Diệm càn quét, khủng bố, rải chất độc hóa học, dồn dân lập ấp chiến lược, đàn áp tín đồ Phật giáo, tàn sát đồng bào Miền Nam”[9]. Ngày 14/05/1963 Ủy ban trung ương mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam đã đưa ra những thông báo tuyên bố “Chống Mỹ - Diệm khủng bố Phật giáo, kêu gọi đồng bào cả nước ủng hộ Phật giáo”[10].
Ngày 12/06/1963 Tại khu giải phóng, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền nam Việt Nam tổ chức truy điệu trọng thể. Chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ đọc bài điếu.
Khi vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức diễn ra từ Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trang trọng công bố trên đài phát thanh và báo chí hai câu đối kính viếng hòa thượng Thích Quảng Đức:
Vị pháp thiêu thân vạn cổ hùng uy thiên nhật nguyệt
Lưu danh bất tử bách niên chính khí địa sơn hà.
Lời dịch của Phan Duy Nhân.
Vì pháp thiêu thân, muôn thuở hùng uy trời nhật nguyệt
Lưu danh bất tử, trăm năm chính khí đất sơn hà.
Khắp các thành phố, thị xã và vùng nông thôn miền Bắc, từ Lạng Sơn đến Vĩnh Linh, đều tổ chức mít - tinh ghi nhớ công đức Hòa thượng và lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Ngày 22/08/1963 Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam ra tuyên bố “Điều quan trọng nhất hiện nay là tín đồ Phật giáo cũng như nhân dân các đô thị kiên quyết giữ vững tinh thần, giữ vững đội ngũ, giữ vững đấu tranh…với ý chí đó ta sẽ làm cho Mỹ - Diệm bị thất bại nhục nhã”[11].
Trong những ngày 29/05, 15/06, ngày 28/08/1963 Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Tội ác của chúng, trời đất không thể dung. Hành động hung tàn của chúng, nhân dân ta đều căm giận. Cả thế giới đều phản đối, nhân dân tiến bộ Mỹ cũng tỏ lòng bất bình” và kêu gọi “Đồng bào Miền Nam ta đoàn kết nhất trí, không phân biệt sĩ, nông, công, thương, không phân biệt chính kiến, tôn giáo kiên quyết đấu tranh để giành lại tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng”[12].
Phản ứng của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Sau khi hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, làn sóng ủng hộ Phật giáo và căm phẫn chính quyền Ngô Đình Diệm lan rộng ra khắp miền Nam.
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Ảnh Malcolm Browne
Ngay ngày hôm đó (11/06/1963) đúng 19 giờ Tổng thống Ngô Đình Diệm đọc một bài diễn văn trên sóng phát thanh rằng ông "hết sức lo ngại" về vụ việc và khẩn khoản kêu gọi "đồng bào bình tâm". Ông cũng thông báo rằng tiến trình đàm phán đang tiến triển tốt. Ông Diệm cho biết chính tình hình tôn giáo căng thẳng như thế này đã làm nổi bật vai trò của thuyết nhân cách trong Thiên chúa giáo đối với các luật lệ của ông. Ngô Đình Diệm còn cho rằng những người có tư tưởng cực đoan đã bóp méo sự thật và khẳng định rằng các Phật tử có thể: "tin tưởng vào Hiến pháp, hay nói cách khác là tin tưởng ở tôi". Ngày 14/06/1963 Diệm chuẩn bị đối phó với cuộc hỏa táng Diệm đã triệu tập hội đồng tướng lĩnh và ra thông cáo “Ủng hộ Diệm trong cuộc xung đột với Phật giáo…”. Ngày 15/06/1963 Hơn 5000 quân đội và cảnh sát đổ ra đường, đặt hàng rào kẽm gai khắp nơi trong thành phố với kế sách “Việt Cộng mang hàng ngàn trái lựu đạn vào đây để gây rối vụ hỏa táng…”. Ngày 16/06/1963 Cảnh sát nổ súng, ném lựu đạn vào quần chúng. Kết quả 12 cảnh sát bị thương, 251 người biểu tình bị bắt. Cùng ngày chừng 300 tăng ni biểu tình trước đại sứ quán Mỹ phản đối Diệm đàn áp Phật giáo, tuy nhiên dư luận cho hay CIA đã thâm nhập vào đội ngũ lãnh đạo Phật giáo nên việc hỏa táng bị hoãn. Ngày 16/06/1963 được coi là dấu chấm hết của “Bốn mươi ngày nóng bỏng”.
Từ Vatican, Đức Giáo hoàng Phao Lồ đệ lục gửi thông điệp yêu cầu Diệm tôn trọng tự do tôn giáo nhưng những thông điệp trên bị chính quyền Diệm ngăn cấm, không cho phổ biến và phong trào đấu tranh lại càng bùng lớn hơn với 6 cuộc tự thiêu nối theo: Đại đức Thích Nguyên Hương (Bình Thuận), Đại đức Thích Thanh Tuệ (Quảng Trị), Ni cô Thích Nữ Diệu Quang (Ninh Hòa), Thượng tọa Thích Thiện Huệ (Thừa Thiên – Huế), Đại đức Thích Quảng Hương (Sài Gòn), Đại đức Thích Thiện Mỹ (Sài Gòn). Nữ sinh Mai Tuyết An chặt đứt tay mình tại chùa Xá Lợi để chống chế độ Diệm và nữ sinh Quách Thị Trang 15 tuổi bị cánh sát Diệm bắn chết trước chợ Bến Thành.
Do ảnh hưởng của vụ tự thiêu nên Ngô Đình Diệm miễn cưỡng hòa hoãn và tổ chức cuộc họp kéo dài 3 ngày từ 14/6 - 16/6 tại Hội Trường Diên Hồng giữa Ủy Ban Liên Bộ do Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cầm đầu và Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo và Bản Thông Cáo Chung ra đời với chữ ký (Khán) của Hòa Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Thích Tịnh Khiết và Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong đó có những điểm chính như sau:
-   Tách hiệp hội có tính các tôn giáo ra khỏi Dụ Số 10.
-   Chính phủ sẽ lập một Ban Điều Tra để xét lại các hồ sơ khiếu nại của Phật Giáo.
-   Tất cả những ai có liên quan đến cuộc vận động thực hiện 5 nguyện vọng của Tổng Hội Phật Giáo đề ra bất luận ở đâu sẽ được Tổng Thống đặc biệt khoan hồng.
-   Chính phủ sẽ xác nhận lệnh sửa sai đã ban ra cho các cán bộ để thực thi chính sách bình đẳng tôn giáo của chính phủ.
-   Những cán bộ có trách nhiệm về các vụ xảy ra từ ngày 8/5/1963 bất kỳ thuộc thành phần nào cũng sẽ bị nghiêm trị, nếu cuộc điều tra đang tiến hành chứng tỏ lỗi của họ.
-   Các gia đình nạn nhân ở Huế đã được trợ giúp kịp thời và có thể được trợ giúp thêm tùy theo gia cảnh từng người.
Làn sóng đấu tranh bất khuất dâng cao cho đến ngày chế độ Diệm bị lật đổ hoàn toàn bởi Hội đồng quân nhân do tướng Dương Văn Minh đứng đầu.
Ngày 24/08/1963 Chính phủ Mỹ nói thẳng với Diệm rằng Hoa Kỳ yêu cầu chính quyền Sài Gòn gạt bỏ vợ chồng Nhu “Đó là biện pháp tốt nhất để khắc phục những sai lầm với Phật giáo”.
Sự kiện tự thiêu là đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng liên quan đến phật giáo tại miền Nam Việt Nam vào năm 1963. Biến cố này là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc đảo chính lật đổ chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm.
Dư luận quốc tế
Ngay ngày đó (11/06/1963) nhiều tờ nổi tiếng thế giới như Washington Post (Mỹ), Le Monde (Pháp), La Gezette de Lausanne hoặc Journal de Genève (Thụy Sĩ), cũng như dư luận và các tổ chức tôn giáo tại các quốc gia có người theo đạo Phật như Ấn Độ, Nhật Bản, Miến Điện (Myanmar), Tích Lan (Sri Lanka), Thái Lan, Nam Hàn (Hàn Quốc), Campuchia, Lào... đều lên tiếng chỉ trích Diệm - Nhu[13].
Từ Vatican, Đức Giáo hoàng Phao Lồ đệ lục gửi thông điệp đến Việt Nam biểu lộ “sự chú tâm, đau đớn khi theo dõi các biến cố bi thảm đang giày vò người dân Việt, cầu nguyện để tất cả mọi người tái lập tình tương thân huynh đệ và tôn trọng các quyền tự do chân chính”.        
Tại Campuchia, Thủ Tướng đã bày tỏ thiện cảm với Phật Giáo Việt Nam. Thái Lan các báo chí tại Vọng Các đều đăng tải các tin tức liên quan đến những biến cố ở Huế. Trung Hoa Quốc Gia, rồi Lời Hiệu Triệu của Ô. Hội Trưởng Hội Phật Giáo Thế Giới tại Ngưỡng Quang, Miến Điện, Nhật Bản, Ấn Độ, Ai Lao, Đại Hàn, Indonesia, Hongkong.
Tại Hoa Kỳ, báo News and World Report viết như sau “Người Mỹ ở Sài Gòn cho biết cuộc sinh sự với các nhà lãnh đạo Phật Giáo của Ô. Diệm là một lỗi lầm tệ hại nhất từ xưa tới nay…khiến cho vai trò của Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt Nam lâm vào tình trạng khốn quẫn”. Rồi tới các báo chí ở Thụy Sĩ, Anh Quốc, Úc Đại Lợi, Pháp. Riêng tờ Neak Cheat Niyum ra ngày 30/6/1963 trong bài xã luận nhan đề “Bước Đường Cùng Của Sự Dối Gạt” đã viết “Ông Ngô Đình Diệm với những anh em ông ta và người em dâu bất khả xa lìa, đã dùng hai tuần lễ cuối cùng để chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu tới, những người cuồng tín nhất trong bọn đã nhận được vũ khí và tất cả phải tức khắc ra tay trước khi Phật Giáo đồ thực hiện chủ trương tạo một Thánh Barthelemy như của Gia Tô Giáo. Nói riêng thì tập đoàn này không thể vì cớ gì lùi bước được nữa vì chúng tôi lượm được những tin này tại các trung tâm Gia Tô Giáo người Âu ở Nam Việt Nam”. Tại Bruxelles (Bỉ) Linh Mục Pire- người đoạt giải Nobel về hòa bình, gửi Ô. U Thant- Tổng Thư Ký một bức thư yêu cầu ông gấp rút mở cuộc điều tra tại chỗ để làm sáng tỏ vấn đề. Tờ Washington Post viết “Phật Giáo đồ khắp Á Châu sẽ có cảm tưởng rằng dù sao Hoa Kỳ cũng dung túng sự kỳ thị tôn giáo. Đó là một cảm nghĩ sai lầm, nhưng trót là bạn của một chế độ độc tài, áp bức nên Hoa Kỳ dù sao cũng bị ảnh hưởng”. Tờ New York Times số ra ngày 19/6/1963 viết “Tình hình ở Sài Gòn đã đến giai đoạn giống hệt như những ngày cuối cùng của Ô. Lý Thừa Vãn tại Hán Thành”. Tờ Sunday Examiner của Thiên Chúa Giáo xuất bản ở Hongkong viết “Mong rằng những người tuy khác đạo giáo nhưng phải tôn trọng giá trị về tôn thờ đạo giáo của họ, và đó là tinh thần bình đẳng tự do con người”. Nữu Ước UPI “Trong khi chính phủ đang cần sự tin tưởng của dân chúng hơn bao giờ hết thì chính phủ lại đang mất sự ủng hộ của tín đồ Phật Giáo chiếm ba phần tư tổng số dân chúng tại Miền Nam Việt Nam”. Ngày 19/7/1963 hãng tin này lại đưa tiếp “Hôm Thứ Năm, Thượng Nghị Sĩ Wayne L. Morse nói rằng ông sẽ không đồng ý cho một đô-la nào nữa để ủng hộ cho một chế độ độc ác tàn bạo của TT. Ngô Đình Diệm tại Miền Nam Việt Nam”. Tờ Christian Science Monitor trong bài “Sự Đau Khổ Tại Miền Nam Việt Nam” đã viết “Chế độ gia đình trị của TT. Ngô Đình Diệm đang tự đào hố chôn mình”.
Ngày 4/9/1963, phái đoàn Liên Hợp Quốc với 14 nước đã đưa vấn đề Phật giáo Việt Nam Cộng Hòa ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc với nội dung cáo buộc chính quyền Việt Nam vi phạm các nguyên tắc của hiến chương Liên Hiệp Quốc.      
Ngày 4/10/1963, Việt Nam Cộng hoà gửi thư lên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc mời một phái đoàn sang Việt Nam điều tra về tình hình tôn giáo tại Việt Nam. Cuối tháng 10, Liên Hiệp Quốc cử phái đoàn gồm 16 thành viên đại diện 7 quốc gia sang Afghanistan (trưởng phái đoàn), Brazil, Ceylon, Costa Rica, Dahomey, Morroco vaf Nepal sang Việt Nam điều tra tìm hiểu sự thật. Cuộc điều tra kết thúc khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chính.
Phái đoàn Liên Hiệp Quốc đã phỏng vấn nhiều người bao gồm các quan chức Việt Nam Cộng hòa, các lãnh đạo Phật giáo. Tuy nhiên, không có giáo sĩ Công giáo hoặc thường dân nào được mời tham gia trong việc điều tra.
Tuy nhiên, một số kết luận điều tra đã bị phản bác bởi bác sĩ người Ðức Erich Wulff, nhân chứng của vụ nổ súng ở Huế. Ông kể: "Chúng tôi nghe khoảng 10 phát súng nổ kêu vang và khô khan... Tôi có thể nhìn thấy rõ ràng đầu ngọn lửa phát ra từ họng súng của hai chiếc xe án ngự nơi bồn tròn nằm phía đầu cầu Tràng Tiền. Sau tiếng súng là một chập im lặng… Từng nhóm từ mười đến hai mươi người vung tay lên bày tỏ sự bất bình của mình. Ðúng vào lúc đó một loạt súng trường bắt đầu nhả đạn. Một chiếc thiết giáp bắt đầu tìm cách phân tán những đám nhỏ này. Thiếu tá Sỹ lệnh cho chúng tôi phải rời đi, ông ta là một người Kito quá khích và là người thân tín của Tổng giám mục Thục”. Ông cho biết những nạn nhân có những vết thương nghiêm trọng do đạn bắn chứ không phải như Đặng Sỹ nói:Dưới ánh sáng yếu ớt của đèn bạch lạp, chúng tôi thấy có bảy thân người đầy máu me được đặt trên ba bàn khám nghiệm bằng đá. Từ chân đến ngực thân thể họ còn nguyên vẹn. Nhưng năm cái xác – tất cả là trẻ em – thì không còn đầu.Nơi một người phụ nữ thì có những vết đạn bắn vào cánh tay, vai và cổ. Các xe thiết giáp đã bắn nát đầu các em thiếu nhi, có lẽ vào lúc các em leo qua hàng rào của đài phát thanh và nhô đầu ra phía trước”. Những lời tường thuật đầu tiên này được ghi lại chỉ không đầy một giờ đồng hồ sau biến cố; đã được dùng làm bằng cớ vào tháng 9 năm 1963 trước Ủy ban Việt Nam của Liên Hiệp quốc, kèm theo với lời khai danh dự chứng thật nguyên bản của Giáo sư Krainick.
Chính quyền Ngô Đình Diệm cũng bác bỏ các lời buộc tội. Tuy nhiên, năm 1964, sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị đảo chính, tòa án quân sự đã bắt Mathew Đặng Sỹ và kết án tử hình với các tội danh: bắn vào đám đông không vũ trang, dùng xe bọc thép cán người biểu tình, và sử dụng chất nổ nguy hiểm để kiểm soát đám đông. Đặng Sỹ vẫn tuyên bố mình vô tội, ông biện hộ rằng việc ra lệnh phóng 3 quả lựu đạn MK3A2 vào đám đông là để “Giúp giải tán nhanh đoàn người, bảo vệ họ khỏi các cuộc tấn công có thể có của Việt Cộng”. Lời bào chữa này khiến hàng ngàn xếp hàng trên đường phố rất tức giận và la ó phản đối dữ dội. Đối mặt với tình trạng bất ổn nội bộ, Nguyễn Khánh xá tội chết nhưng kết án Đặng Sỹ phải vào trại lao động khổ sai, cùng với các khoản bồi thường cho các gia đình nạn nhân.
Dư luận quốc tế, những người yêu chuộng hòa bình đã góp phần vào việc ủng hộ và ngăn chặn những hành động tàn ác của chính phủ Diệm, đồng thời nhân dân thế giới, báo chí cũng là cơ quan ngôn luận giúp vạch tội chính quyền Diệm – Nhu.
Dư luận trong và ngoài nước ngày càng căm phẫn chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Cuộc tranh đấu thần thánh của Phật giáo Việt Nam đã góp một phần không nhỏ vào cuộc đảo chính ngày 01/11/1963, của quân đội Việt Nam Cộng Hòa lật đổ cường quyền họ Ngô. Phật giáo đã tô đậm nét vàng son hào hùng vào trang lịch sử dân tộc. Cuộc tranh đấu của phật giáo từ ngày 08/05/1963 tới ngày 11/06/1963 đã mở một kỷ nguyên mới cho phật giáo Việt Nam: Kỷ nguyên của tranh đấu bất bạo động mà chiến thắng được cường quyền. Vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức có ảnh hưởng to lớn đến cuộc kháng chiến chống Mỹ và phong trào giải phóng miền Nam sau này.

Tài liệu tham khảo
1.                 Báo nhân dân năm 1963.
2.                 Bộ quốc phòng Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Cứu nước 1954 – 1975, Tập III, Đánh thắng chiến tranh đặc biệt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
3.                 William Colby, Một chiến thắng bị bỏ lỡ, Nxb Công an nhân dân, 2007.
4.                 Lê Cung, Phong trào đô thị Huế trong kháng chiến chống Mỹ 1954 – 1975, Nxb Bản Thuận Hóa, Huế, 2001.
5.                 Lê Cung, Phong trào Phật giáo Miền Nam Việt Nam năm 1963, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.
6.                 Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, Tập II, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1966.
7.                 Các trang: http://www.phatviet.com. http://www.baomoi.com, http://chuaphuclam.com. http://sachhiem.net. http://www.lichsuvietnam.vn. http://vi.wikipedia.org. http://www.quangduc.com. http://www.quangduc.com.
8.                 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Tập 24, Năm 1963, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
9.                 Học viện chính trị quốc gia, Viện lịch sử đảng, Lịch sử biên niên xứ ủy Nam Bộ và trung ương cục Miền Nam Việt Nam (1954 – 1975). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
10.            Bùi Thị Thu Hà, Phật giáo hòa hảo tri thức cơ bản, Nxb Từ điển bách khoa, 2012.
11.            Lê Mạnh Thát, Bồ tát Quảng Đức ngọn lửa và trái tim, Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Tp.HCM 2005.
12.            Trần Trọng Trung, Nhà Trắng với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
13.            Nguyễn Đăng vinh, Lê Ngọc Tú,  Biên niên sự kiện chiến tranh Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Lao động, 2011.
14.            Nguyễn Đăng Vinh, Đặng Lê Thùy, Lê Ngọc Tú, Việt Nam 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc 1945 – 1975 biên niên sự kiện, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà nội, 2005.
15.             Ủy ban khoa học Xã hội Việt Nam, Viện sử học, Việt Nam những sự kiện 1945 – 1975, Tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975.

Lý Viết Trường – K57 Lịch sử
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn -
Đại học Quốc gia Hà Nội
SĐT: 01636.302.985 Số CMTND: 082254943




[1] Bài đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay số 438, trang 21 – 25.
[2] Thích Quảng Đức (1897 – 1963), nguyên tên là Lâm Văn Tuất, quê làng Hội Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Song thân ông là cụ Lâm Hữu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương là một gia đình có truyền thống tín ngưỡng đạo Phật. Năm lên 7 tuổi, ông vào tu tại chùa của cậu ruột là Hòa thượng Hoằng Thâm, năm 15 tuổi thọ Sa di, năm 20 tuổi Tì kheo, có pháp danh là Thị Thủy, Pháp tự là Hành Pháp hiệu là Thích Quảng Đức. Năm 1932, nhân An Nam Phật học hội ra đời, ông được mời làm Chứng minh Đạo sư tại chi hội Phật học Ninh Hòa, rồi lãnh chức Kiểm tăng của Giáo hội tỉnh Khánh Hòa. Năm 1943, ông vào miền Nam hóa đạo khắp các tỉnh: Sài Gòn, Gia Định, Bà Rịa, Định Tường. Ngôi chùa cuối cùng ông trụ trì là chùa Quán Thế Âm. Năm 1953, ông giữ chức Trưởng ban Nghi lễ của giáo hội Tăng già Nam Việt kiêm trụ trì chùa Phước Hòa, rồi chùa Quán Thế Âm. Ngày 11/06/1963 trong cuộc tuần hành của trên 1000 vị tăng sĩ và giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo miền Nam cùng một số đông đảo đồng bào yêu nước chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, ông phát nguyện tự thiêu đòi bình đẳng tôn giáo chống đàn áp Phật giáo và đòi dân sinh, dân chủ.
[3] Xem thêm bài Tinh thần vô vị ngã của “Bồ tát” Quảng Đức qua lời nguyện tâm quyết và kệ thiêu thân cúng dường của Nguyễn Công Lý trên Xưa & Nay số 430, tháng 06/2013.
[4] Hồ sơ gửi Tổng thống và Quốc hội Phật giáo trung phần ngày 20/02/1962. Thư viện học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1968. Tr.2, Tr.3.
[5] Trần Trọng Trung, Nhà Trắng với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. Tr.389.
[6] Trần Trọng Trung, sdd. Tr.389.
[7] Báo Nhân dân, ngày 13/06/1963, Tr.4.
[8] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, tập 24.
[9] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, tập 24.
[10] Biên Niên sự kiện chiến tranh Việt Nam 1945 – 1975.
[11] Tuyên bố của MTDTGPMNVN ngày 22/08/1963. Tuần báo thống nhất, Số 323, ngày 30/08/1963, Tr.3.
[12] Báo Quân đội Nhân Dân, ngày 29/08/1963, Tr.1.
[13] Tại Hoa Kỳ, báo News and World Report viết như sau “Người Mỹ ở Sài Gòn cho biết cuộc sinh sự với các nhà lãnh đạo Phật Giáo của Ô. Diệm là một lỗi lầm tệ hại nhất từ xưa tới nay…khiến cho vai trò của Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt Nam lâm vào tình trạng khốn quẫn”.
Rồi tới các báo chí ở Thụy Sĩ, Anh Quốc, Úc Đại Lợi, Pháp.
Riêng tờ Neak Cheat Niyum ra ngày 30/6/1963 trong bài xã luận nhan đề “Bước Đường Cùng Của Sự Dối Gạt” đã viết “Ông Ngô Đình Diệm với những anh em ông ta và người em dâu bất khả xa lìa, đã dùng hai tuần lễ cuối cùng để chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu tới, những người cuồng tín nhất trong bọn đã nhận được vũ khí và tất cả phải tức khắc ra tay trước khi Phật Giáo đồ thực hiện chủ trương tạo một Thánh Barthelemy như của Gia Tô Giáo. Nói riêng thì tập đoàn này không thể vì cớ gì lùi bước được nữa vì chúng tôi lượm được những tin này tại các trung tâm Gia Tô Giáo người Âu ở Nam Việt Nam”.
Tại Bruxelles (Bỉ) Linh Mục Pire- người đoạt giải Nobel về hòa bình, gửi Ô. U Thant- Tổng Thư Ký một bức thư yêu cầu ông gấp rút mở cuộc điều tra tại chỗ để làm sáng tỏ vấn đề.
Tờ Washington Post viết “Phật Giáo đồ khắp Á Châu sẽ có cảm tưởng rằng dù sao Hoa Kỳ cũng dung túng sự kỳ thị tôn giáo. Đó là một cảm nghĩ sai lầm, nhưng trót là bạn của một chế độ độc tài, áp bức nên Hoa Kỳ dù sao cũng bị ảnh hưởng”.
Tờ New York Times số ra ngày 19/6/1963 viết “Tình hình ở Sài Gòn đã đến giai đoạn giống hệt như những ngày cuối cùng của Ô. Lý Thừa Vãn tại Hán Thành”.
Tờ Sunday Examiner của Thiên Chúa Giáo xuất bản ở Hongkong viết “Mong rằng những người tuy khác đạo giáo nhưng phải tôn trọng giá trị về tôn thờ đạo giáo của họ, và đó là tinh thần bình đẳng tự do con người”.
Nữu Ước UPI “Trong khi chính phủ đang cần sự tin tưởng của dân chúng hơn bao giờ hết thì chính phủ lại đang mất sự ủng hộ của tín đồ Phật Giáo chiếm ba phần tư tổng số dân chúng tại Miền Nam Việt Nam”.
UPI Hoa Thịnh Đốn ngày 19/7/1963 đưa tin “Hôm Thứ Năm, Thượng Nghị Sĩ Wayne L. Morse nói rằng ông sẽ không đồng ý cho một đô-la nào nữa để ủng hộ cho một chế độ độc ác tàn bạo của TT. Ngô Đình Diệm tại Miền Nam Việt Nam”.
Tờ Christian Science Monitor trong bài “Sự Đau Khổ Tại Miền Nam Việt Nam” đã viết “Chế độ gia đình trị của TT. Ngô Đình Diệm đang tự đào hố chôn mình”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét